Xuất xứ:
Dingo là loài động vật hoang dã, được mang tới châu Úc bởi những ngừơi nguyên thủy từ 4000 năm trước. Người ta tin rằng giống chó này là tổ tiên của hơn 600 giống chó hiện tại trên thế giới. Thuyền trưởng William Damphier là người đầu tiên đã viết về loài chó hoang này vào năm 1699. Khi đó, chúng được những người thổ dân châu Úc nuôi dưỡng như một nguồn thực phẩm dự phòng cho những khi cơ nhỡ. Là hậu duệ của loài chó hoang Trung Đông và Đông Nam Á, Dingo dần trở thành hoang dã và quay về với tự nhiên. Với việc du nhập cừu và thỏ vào châu Úc bởi những người châu Âu, quần thể Dingo đã sinh sôi nảy nở vô cùng nhanh chóng.
Việc loài Dingo chọn các loại gia súc làm nguồn thực phẩm chính đã gây ra sự thù địch giữa chúng và con người. Việc can thiệp thô bạo của con người vào hệ sinh thái từng rất cân bằng của châu Úc đã được đổ hết trách nhiệm cho loài Dingo. Ngày nay, chỉ có ít người chú ý đến loài chó này và tìm cách nghiên cứu nhằm bảo tồn gìn giữ chúng như những loài bản địa. Hiệp hội Huấn luyện chó bản địa Úc, có trụ sở tại bang New South Wales, đã nuôi dưỡng và huấn luyện khá nhiều chó Dingo. Những chú chó này có thể thuần dưỡng trở lại khá dễ nếu được nuôi từ nhỏ, nhưng chúng vẫn còn giữ lại một vài bản tính của lòai chó hoang như lẩn trốn và rất thận trọng. Ở nhiều bang tại Úc, Dingo vẫn bị coi là nguy hiểm và không được phép nuôi trong nhà. Một vài bang khác thì cho phép, nhưng với những qui định rất ngặt ngèo. Chính phủ liên bang Úc xếp Dingo vào loại thú hoang dã và cấm xuất khẩu, ngoại trừ xuất cho các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc vườn bách thú. Vì vậy rất hiếm gặp Dingo ở ngoài phạm vi châu Úc.
Ngoại hình:
Chó hoang Dingo có cặp mắt khá lớn, màu dao động từ vàng đến da cam. Đôi tai nhỏ, hơi tròn cực kỳ nhanh nhẹn, hoạt bát và dựng đứng một cách tự nhiên. Đuôi dài cân đối, buông thõng và hơi xù. Phần thân sau chắc nịch và cơ bắp. Bộ lông dày và mềm. Độ dày và độ dài thay đổi tùy theo khí hậu của từng mùa. Màu phổ biến nhất của bộ lông Dingo là vàng tươi, nhưng có thể gặp các cá thể có màu vàng nhạt, đen hoặc trắng. Đôi khi còn có cả màu vện, bạch tạng. Tất cả các chó Dingo thuần chủng đều phải có vệt lông trắng ở bàn chân và chỏm đuôi. Khác với các loại chó khác, chó Dingo không bao giờ có móng đeo (huyền đề).
Tính cách:
Chó Dingo chưa bao giờ được coi là được thuần duỡng một cách hoàn toàn. Điều này có thể được lý giải bởi môi trường sống cách biệt và thiếu sự can thiệp của con người. Giống chó này khó dạy bảo và không thích hợp với trẻ nhỏ. Việc huấn luyện chúng đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và nhẹ nhàng. Chó Dingo chỉ có thể trở thành thú nuôi nếu bạn bắt chó con khi chúng nhỏ hơn 6 tuần tuổi. Khi đó chúng có thể dạy dỗ và trở nên thân thiện với con người. Sau 10 tuần tuổi, tuyệt đối không nên có ý định thuần hóa chúng. Nếu huấn luyện một cách bài bản, Dingo có thể trở thành một vật nuôi vô cùng độc đáo với sự lanh lẹ và các tài lẻ khác như leo trèo… Dingo có họ hàng với các giống chó New Guinea Singing Dog and the Finnish Spitz. Giống như tổ tiên của chúng là lòai sói đồng bằng Ấn độ, Dingo chỉ sinh đẻ 1 lứa trong năm. Một điểm khác biệt nữa của Dingo là chúng chỉ có 1 bạn đời duy nhất. Thông thường, ổ chó con Dingo được chọn là những hốc cây, được bảo vệ kỹ lưỡng xung quanh và che chắn phía trước mặt. Mặc dù vậy, chúng vẫn có thể trở thành món mồi ngon của lũ rắn.
Gia đình nhà Dingo thường hú gọi nhau tập hợp nhau trước mỗi cuộc săn. Lòai chó này có bản năng bầy đàn rất mạnh, luôn cộng tác với nhau trong các cuộc săn mồi. Thói quen của chúng là tổ chức đi săn vào ban đêm. Dingo có thể săn một mình hoặc phối hợp với cả gia đình. Săn cả đàn đông thường hiếm gặp hơn. Một rào cản đối với Dingo là nước. Chúng thường không thích bơi mà chỉ lội ở những vùng nước nông. Chó hoang Dingo thường lẩn tránh các tiếp xúc với con người. Để tồn tại trong thiên nhiên, Dingo học được khả năng giả vờ chết rất khéo léo. Chúng rất hiếm khi tỏ ra hung hãn. Mùa sinh đẻ của Dingo vào khoảng tháng 5-6 hàng năm. Hiện tại, chó con Dingo chỉ được mua bán trong phạm vi nước Úc, không dành cho xuất khẩu. Tuy nhiên, chính sách này có thể sẽ thay đổi trong thời gian tới vì những người yêu quí giống chó này đang vận động một chuơng trình nhằm giới thiệu rộng rãi giống chó đặc biệt này ra thế giới. Giá một chú cún Dingo giao động từ 500 – 1000$ Úc. Một trang trại Dingo tại Úc hiện nay có hơn 100 con và họ đang tích cực chọn lọc, nhân giống để có được những chú Dingo thuần chủng.
Chiều cao, trọng lượng: Chiều cao: 19-23 inches (48-58.5 cm). Cân nặng: ~ 50-70 pounds (23-32 kg). Tuy nhiên, trong tài liệu đã có ghi trường hợp nặng 120 pounds (55 kg).
Điều kiện sống
Dingo không thể nuôi trong điều kiện căn hộ. Vì là loài thú hoang nên nếu bạn có ý định nuôi nó không nên xích chúng ở sân sau. Nhất thiết phải có hàng rào bao quanh khu vườn nhà. Chó Dingo cần có khoảng rộng và vận động rất nhiều. Khi dắt đi chơi không nên thả chúng ra khỏi xích. Có thể chịu đựng được thời tiết nóng bức.
Vận động: Dingo là loài động vật hoang dã và có nhu cầu hoạt động rất lớn.
Tuổi thọ: Có thể sống tới 20 năm.
Grooming: Chó Dingo có bộ lông không thấm nước và có thể tự chăm sóc cho bộ lông của mình. Không có mùi hôi điển hình của loài chó.
Farmvina mang đến những kiến thức và kinh nghiệm bổ ích giúp bạn nuôi thú cưng dễ dàng và hiệu quả. Chúng tôi phát triển trang web này với những ký ức đẹp về BadBoy, chú chó Lạp Xưởng (Dachshund) đã qua đời mà chúng tôi yêu quý.